Skip to main content

Đặc điểm của sự liên kết trong nhóm Công ty

    Hiện nay, việc tự do hóa các hoạt động đầu tư, thương mại, mở rộng liên doanh, vốn cổ phần, đầu tư thâm nhập lẫn nhau giữa các doanh nghiệp, đặc biệt là cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước đã làm thay đổi đáng kể quan hệ giữa các doanh nghiệp. Điều đó đã tạo ra các tiền đề để chuyển đổi các tổng công ty thành các nhóm công ty đó là mô hình công ty mẹ - công ty con. Tạo nên sự liên kết chặt chẽ trong mô hình nhóm công ty.

    Tuy nhiên, thực tiến của việc chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà nước sang mô hình công ty mẹ - công ty con cũng còn nhiều bất cập, việc chuyển đổi tổng công ty sang mô hình này được thực hiện theo chủ trương thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm nên pháp luật còn nhiều điểm chưa hoàn thiện như các quy định về loại mô hình này. Để làm rõ hơn vấn đề trên em xin nghiên cứu đề: “Trình bày hiểu biết về sự liên kết trong nhóm công ty”.

I. KHÁI QUÁT VỀ NHÓM CÔNG TY

1. Định nghĩa nhóm công ty

    Tại  Chương VIII – Luật doanh nghiệp 2014 có nêu ra khái niệm “nhóm công ty” nhưng không có điều luật nào  quy định cụ thể về nhóm công ty. 

Khoản 1 - Điều 188 – Luật doanh nghiệp 2014 có qui định như sau:

    “Tập đoàn kinh tế, tổng công ty thuộc các thành phần kinh tế là nhóm công ty có mối quan hệ với nhau thông qua sở hữu cổ phần, phần vốn góp hoặc liên kết khác. Tập đoàn kinh tế, tổng công ty không phải là một loại hình doanh nghiệp, không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký thành lập theo quy định của Luật này”.  

    Quy định trên có nêu ra các hình thức của nhóm công ty như: Tập đoàn kinh tế, tổng công ty, mà không làm rõ nội hàm, bản chất của khái niệm “nhóm công ty”.

    Theo thông lệ chung trên thế giới, có thể quy định nhóm công ty tập hợp các công ty có mối liên hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác.  Nhóm công ty không có tư cách pháp nhân, thực hiện đồng thời 2 chức năng: kinh doanh và liên kết kinh tế

2. Đặc điểm pháp lý của nhóm công ty

    Nhóm công ty được hình thành trên cơ sở liên kết giữa các công ty thành vên. Đây là xu thế tất yếu của quá trình phát triển của lực lượng sản xuất. Liên kết giữa các công ty để hình thành nhóm công ty dựa trên ý chí tự nguyện của chính công ty đó.

    Các công ty độc lập, nhân danh chính mình để thực hiện hành vi liên kết. Tuy nhiên trong một số trường hợp do điều kiện cạnh tranh cũng như ảnh hưởng tới tíh tự nguyện liên kết, quy luật cạnh tranh trong nên kinh tế sẽ buộc các doanh nghiệp phải liên kết với nhau nhằm tạo lập, duy trì, phát triển tối đa nguồn lực của doanh nghiệp đó.

    Dựa trên tính chất ngành nghề, các nhóm công ty được hình thành: nhóm công ty liên kết theo chiều ngang; nhóm công ty liên kết theo chiều dọc; nhóm công ty liên kết hỗn hợp.

    Dựa vào phương thức hình thành, các nhóm công ty chia thành: nhóm công ty liên kết cứng; nhóm công ty liên kết mềm; nhóm công ty liên kết trên cơ sở xác lập thống nhất tài chính và kiểm soát tài chính.

  1. Nhóm công ty có tên riêng, có trụ sở riêng. Tên riêng của nhóm để chỉ một tập hợp các công ty độc lập, hoạt động trên cơ sở liên kết chặt chẽ vì lợi ích kinh tế. Tên riêng của nhóm để phân biệt giữa nhóm công ty với các công ty trong nhóm và phân biệt nhóm công ty này với nhóm công ty khác. Nhóm công ty có trụ sở ổn định, rõ ràng. Trụ sở của nhóm công ty là nơi để thực hiện hoạt động quản trị nhóm công ty nói chung và các công ty trong nhóm nói riêng.
  2. Nhóm công ty không có tư cách pháp nhân, không có tài sản riêng. Mỗi công ty trong nhóm là một chủ thể với năng lực pháp lý đầy đủ, nhân danh chính mình thực hiện các quan hệ pháp luật. Sự tập hợp của các công ty tạo thành nhóm không hướng đến việc hình thành một tổ chức kinh tế mới tham gia thị trường mà thực hiện quá trình liên kết nhằm tối đa hóa lợi ích của từng công ty kinh doanh độc lập. Vì vậy, nhóm công ty không có tư cách pháp nhân, sự vận hành của nhóm công ty chính là sự vận hành của các công ty thành viên.
  3. Nhóm công ty hình thành từ sự liên kết những không xuất phát từ quá trình góp vốn chung, vì vậy nhóm công ty không nhận sự chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn từ các công ty thành viên nên không có  tài sản chung. Các công ty thành viên thực hiện nghãi vụ đóng góp tài chính để duy trì hoạt động của bộ máy quản trị nhằm thực hiện các trách nhiệm cần thiết cho hoạt động của nhóm.

3. Các hình thức nhóm công ty

Các hình thức nhóm công ty bao gồm: tổ hợp công ty mẹ - công ty con, tập đoàn kinh tế và một số hình thức khác.

II. SỰ LIÊN KẾT TRONG NHÓM CÔNG TY

1. Khái quát chung về liên kết trong nhóm công ty

a. Khái niệm liên kết

Theo cách hiểu thông thường, liên kết là việc gắn lại, kết hợp lại những thành phần riêng rẽ để tạo thành một thể hợp nhất. Như vậy, có thể hiểu rằng, liên kết trong nhóm công ty là sự kết hợp của nhiều công ty khác nhau tạo thành một nhóm công ty lớn như tập đoàn kinh tế, tổng công ty

b. Đặc điểm của sự liên kết trong mô hình nhóm công ty

  • Thứ nhất, liên kết trong nhóm công ty được hình thành từ sự kết hợp của các công ty có tư cách pháp nhân độc lập. Các công ty liên kết trong nhóm công ty có hình thức của công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn.
  • Thứ hai, liên kết trong nhóm công ty được hình thành dựa trên tính tự nguyện của các công ty trong nhóm. Các công ty độc lập, nhân danh chính mình để thực hiện hành vi liên kết. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, do những điều kiện cạnh tranh cũng ảnh hưởng tới tính tự nguyện liên kết.
  • Thứ ba, các công ty liên kết với nhau theo loại hình mang lại lợi ích cho các công ty.

c. Các loại liên kết

Các nhóm công ty hiện nay có thể liên kết với nhau theo nhiều hình thức.

  • Liên kết cứng là liên kết dựa trên việc năm giữ vốn.

  • Liên kết mềm là liên kết về công nghệ, thị trường hoặc thương hiệu, là việc liên kết thông qua các hợp đồng hợp tác, liên kết về khoa học kĩ thuật, công nghệ, sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện mục tiêu phát triển, hay mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. (Ví dụ: một công ty cho phép một công ty khác sử dụng những lợi thế về thương hiệu cũng như thị trường nhưng không có vốn góp hoặc vốn góp không đủ chi phối công ty đó thì khó có thể trở thành công ty mẹ).

Ngoài ra cách phân loại trên liên kết trong nhóm công ty có thể phân thành: liên kết ngang, liên kết dọc, và liên kết hỗn hợp.

  • Liên kết ngang là sự kết hợp giữa các công ty trong cùng một ngành, có các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến nhau và có thể sử dụng chung một hệ thống phân phối để gia tăng hiệu quả. Liên kết ngang có ưu điểm là tạo điều kiện đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, tận dụng hệ thống phân phối để tiết kiệm chi phí, phân tán rủi ro. Tuy nhiên, dạng liên kết này có thể gây trở ngại do các công ty thiếu sự chủ động mở một số khâu như cung ứng nguyên vật liệu, sản xuất hoặc phân phối.

  • Liên kết dọc là mô hình liên kết các công ty hoạt động trong cùng một dây chuyền công nghệ sản xuất mà trong đó mỗi công ty đảm nhận một hoặc một số công đoạn của dây chuyền sản xuất đó. Sự liên kết theo chiều dọc tạo lợi thế về chi phí, chủ động nguồn nguyên vật liệu, chủ động trong việc sản xuất, đưa hàng ra thị trường, khả năng kiểm soát các dịch vụ… Tuy vậy, nhóm công ty liên kết theo chiều dọc dễ bị phân tán nguồn lực, khó tập trung vào hoạt động chủ yếu tạo giá trị gia tăng cao nhất trong chuỗi giá trị.

  • Liên kết hỗn hợp (vừa là liên kết ngang, vừa là liên kết dọc) là dạng liên kết giữa các công ty trong ngành hoặc đa ngành.

2. Sự liên kết trong nhóm công ty

    Liên kết trong nhóm công ty có thể là liên kết ngang, liên kết dọc hoặc liên kết hỗn hợp. Việc liên kết này tùy thuộc vào nhu cầu thực tế của mỗi công ty.

    Liên kết giữa các công ty trong nhóm có thể là liên kết cứng, tức là liên kết được thực hiện thông qua mối quan hệ về vốn. Bên cạnh đó còn có liên kết mềm tức là việc liên kết thông qua các hợp đồng hợp tác, liên kết về khoa học kĩ thuật, công nghệ, sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện mục tiêu phát triển, hay mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. 

    Thông thường liên kết cứng có mức độ chặt chẽ hơn liên kết mềm và chúng là liên kết có vai trò quyết định giữa các công ty trong tổ hợp. Ngoài ra, mức độ chặt chẽ của các liên kết này còn phụ thuộc vào mức độ chi phối của công ty mẹ với các công ty con hoặc phụ thuộc vào nội dung thỏa thuận giữa các công ty; Không khó để nhận thấy, thông qua sở hữu vốn quyền chi phối của công ty mẹ với công ty con được thực hiện một cách dứt khoát và hiệu quả nhất. Do đó, liên kết trên cơ sở sở hữu vốn giữ giữa công ty mẹ - công ty con ngày càng giữ vai trò chủ đạo. Bên cạnh đó, liên kết thông qua ngành kinh tế kĩ thuật đã dần trở nên mờ nhạt trong khi liên kết hỗn hợp đa nghành, đa lĩnh vực ngày càng được ưa chuộng. Có thể thấy điều này ngay tại Việt Nam, để thử sức với các lĩnh vực đầu tư mới, để phân tán hay hạn chế rủi ro trong kinh doanh…

    Tổ hợp công ty mẹ - công ty con là kết cấu phổ biến của các tập đoàn kinh tế, là hình thức liên kết ngày càng được ưa chuộng trong nền kinh tế thế giới. Nó được hình thành một cách tự nhiên, phản ánh nhu cầu và sự phát triển về mặt tổ chức của các đơn vị sản xuất kinh doanh theo hướng tập trung hóa trên cơ sở tích tụ và cạnh tranh. 

     “Công ty mẹ - công ty con” là khái niệm dùng để chỉ một tổ hợp các công ty có mối quan hệ với nhau về sở hữu, độc lập về mặt pháp lý và chịu sự kiểm soát chung của một công ty có vai trò trung tâm quyền lực, nắm giữ quyền chi phối các công ty còn lại trong tổ hợp.

    Mối quan hệ giữa công ty mẹ - công ty con là mối liên kết bên trong giữa chúng trong đó nhấn mạnh đến liên kết cứng, tức liên kết trên cơ sở chủ yếu là việc nắm giữ vốn giữa các công ty. 

    Thông qua đầu tư vốn dưới dạng quyền sở hữu cổ phần hay phần vốn góp của công ty con, công ty mẹ thực hiện quyền chi phối về mặt tổ chức cũng như hoạt động của các công ty khác trong tổ hợp. Tuy nhiên, vốn đầu tư chỉ là điều kiện cần mà chưa đủ. Những công ty dù có vốn đầu tư của công ty mẹ song không bị công ty mẹ không nắm quyền chi phối thì không phải là công ty con. 

    Như vậy, để trở thành công ty mẹ của công ty khác thì phải có hai điều kiện đó là có vốn đầu tư vào công ty đó và nắm quyền chi phối công ty đó.

    Tổ hợp công ty mẹ - công ty con là một loại hình liên kết các công ty có tư cách pháp lý độc lập, trong đó, có một công ty có vai trò trung tâm quyền lực (công ty mẹ) nắm giữ cổ phần hoặc phần vốn góp chi phối trong một hoặc một số các công ty khác (công ty con), từ đó kiểm soát hoạt động của các công ty này.

    Bản chất pháp lý của tổ hợp công ty mẹ - công ty con thể hiện ở mối quan hệ sở hữu vốn của công ty mẹ với công ty con. Việc nắm giữ này có thể là một phần hoặc toàn bộ vốn. Thông thường, việc nắm giữa vốn giữa công ty này với công ty khác phải đủ để tạo nên sự chi phối mới hình thành quan hệ công ty mẹ - công ty con. Do đó, sự thay đổi mức sở hữu của công ty này đối với vốn Điều lệ của công ty khác dẫn tới sự thiết lập quan hệ mẹ - con hoặc chấm dứt quan hệ đó;

    Công ty mẹ nắm giữ quyền chi phối, kiểm soát công ty con, công ty con tự nguyện chấp nhận sự chi phối, kiểm soát của công ty mẹ theo những nguyên tắc và phương thức nhất định. Thông thường, việc kiểm soát, chi phối của công ty mẹ thể hiện ở việc tác động tới cơ cấu tổ chức hay các quyết định quan trọng tới hoạt động của công ty con.

    Luật Doanh nghiệp 2014 cũng có quy định cụ thể về vấn đề này. Cụ thể tại Điều 189 có nêu một công ty được coi là công ty mẹ của công ty khác nếu: Sở hữu trên 50% vôn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ thông của công ty đó. Như vậy liên kết về vốn là liên kết chủ đạo, giữ vai trò quan trọng quyết định đến quyền và lợi ích của các công ty.

    Liên kết giữa chúng được hình thành trên cơ sở chủ yếu là nắm giữ vốn, trong đó, công ty mẹ là công ty được thành lập và đăng kí theo quy định của pháp luật, nó nắm giữ một tỉ lệ vốn nhất định trong công ty con đủ để chi phối các công ty này. Các công ty con cũng là các công ty được thành lập và đăng ký theo quy định của pháp luật, chúng có tư cách pháp nhân độc lập, riêng rẽ với công ty mẹ nhưng chịu sự kiểm soát của công ty mẹ.

    Trong mô hình công ty mẹ - công ty con ngoài liên kết cứng (liên kết về vốn) thì có thể liên kết với nhau qua bí quyết công nghệ, thị trường hoặc thương hiệu. Trên thực tế sự liên kết này rất hạn chế. 

    Mối quan hệ được xác lập thông qua sự chi phối bằng yếu tố tài sản trên cơ sở nắm giữ vốn. Việc nắm giữ vốn sẽ mang lại cho công ty mẹ những quyền hạn nhất định, tuy nhiên việc nắm giữ này phải đạt được một tỉ lệ nhất định thì mới hình thành quyền chi phối. 

    Như vậy, trong nhóm công ty hiện nay liên kết chủ đạo và quyết định nhất vẫn là liên kết về vốn. Đây là hình thức liên kết chặt chẽ nhất và luôn được ưu tiên lựa chọn. Các hình thức liên kết khác tuy mang lại hiệu quả nhưng cũng tồn tại nhiều rủi ro, bởi vậy nên ít được áp dụng trên thực tế.




Chat Zalo: 0902198579

Copyright © 2019 OPIC LAW All Right Reserved